Mạn Kinh Tử được sử dụng trong Đông y để chữa sốt, cảm mạo, nhức đầu,
chữa đau mắt, hoa mắt chóng mặt, chữa phong thấp, gân cốt đau, tê
buốt.
Tên khác: Quan âm biển.
Tên khoa học: Vitex trifolia L. hay cây Mạn kinh đơn diệp (Vitex trifolia
L. var. Simplicifolia Cham.), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây mọc nhiều ở vùng
rừng núi, ven biển nước ta.
Mô tả: Cây nhỡ cao đến 5m, có khi là dây leo, cành non vuông, có lông màu xám.
Lá mang 3-5 lá chét, ở mặt dưới lá có lông dày trắng, trên
mặt lá không có lông, cuống phụ 2-8mm.
Chùm hoa hẹp dầy lông trắng, cao 5-20cm ở ngọn cành, hoa màu lam tím. Quả hạch
tròn, to đường kính đến 6mm.
Bộ phận dùng: Quả chín đã phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học chính: Quả chứa vitexin, tinh dầu. Tinh dầu chủ yếu có:
l-pinen, camphen... các flavonoid, alcaloid.
Công dụng: Chữa sốt, cảm mạo, nhức đầu, chữa đau mắt, hoa mắt chóng mặt, chữa
phong thấp, gân cốt đau, tê buốt.
Cách dùng, liều lượng:
Ngày dùng 2-3g dưới dạng bột hoặc
6-12g
dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.
Bài thuốc từ Mạn Kinh Tử:
- Chữa cảm sốt, nhức đầu, mắt sưng đỏ: Mạn kinh tử 15g, Chi tử, Bạc hà, Cúc hoa, mỗi vị 12g, Kinh giới 10g, Xuyên khung 4g, đổ nước, bịt kín ấm, sắc rồi xông đầu, xông mắt cho đến khi ra mồ hôi. Uống khi thuốc còn nóng.
- Chữa đau mắt sưng đỏ, các màng che, chảy dử, quáng mắt: Mạn kinh tử, hạt Ích mẫu, hạt Muồng (sao), hạt Mã đề, hạt Mào gà trắng, các vị bằng nhau, tán bột làm viên, uống với nước chè, hoặc dùng mỗi vị 12g sắc uống.
- Chữa nhức đầu, đau nhức mắt, hoa mắt, chóng mặt: Mạn kinh tử 200g ngâm rượu, uống mỗi lần 1 chén con, ngày 3 lần. Hoặc dùng bài thuốc: Mạn kinh tử, Cúc hoa, Sinh địa, Xích thược, Mạch môn đông mỗi vị 15g, Xuyên khung, Mộc thông, Sài hồ, Tang bạch bì mỗi vị 10g, Thăng ma, Cam thảo mỗi vị 5g. Sắc với 700ml nước còn 250ml uống lúc ấm trước khi ăn.
*Lưu ý: Các bài thuốc chỉ mang tính chất tham khảo, bệnh nhân không nên tự ý sử dụng khi chưa có ý kiến của thầy thuốc.